Cập nhật tình hình cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Dexia chính thức trở thành nạn nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu

Đầu tháng 10/2011, ngân hàng Dexia – ngân hàng liên doanh của 3 nước Pháp, Bỉ và Luxembourg thuộc top 50 ngân hàng lớn nhất thế giới đã chính thức cần đến sự giúp đỡ để tránh rơi vào tình trạng phá sản. Dư luận báo chí các nước Châu Âu cho rằng sự sụp đổ của Dexia là mốc quan trọng đánh dấu ngành ngân hàng Châu Âu có nguy cơ bị sụp đổ giống như “Kịch bản Lehman Brothers” ở Mỹ năm 2008.

Đọc tiếp »

“Operation Twist” (Phần 1)

Rạng sáng nay theo giờ Việt Nam (22/09), Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã công bố chương trình “Operation Twist” trị giá 400 tỷ USD nhằm hạ thấp lãi suất dài hạn và giúp nền kinh tế hồi sinh. Theo đó, Fed sẽ bán 400 tỷ USD trái phiếu ngắn hạn (đáo hạn trong vòng 3 năm trở lại) để mua 400 tỷ USD trái phiếu dài hạn (đáo hạn trong vòng 6 – 30 năm) bắt đầu từ tháng 10/2011 và kết thúc vào tháng 6/2012. Tuy nhiên, theo đánh giá chủ quan của tác giả, gói kích thích kinh tế lần này không đủ để làm dịu cơn khát của nền kinh tế và chưa đủ để thỏa mãn sự chờ đợi của giới đầu tư suốt mấy tháng qua. Mặt khác, gói hỗ trợ lần này còn cho thấy sự thật là nền kinh tế bậc nhất thế giới đang cạn kiệt các công cụ hỗ trợ hiệu quả và các nhà cầm quyền cũng đang dần bế tắc.

“Operation Twist” – QE2,5!

Một số nhà phân tích khi đăng tin về gói kích thích lần này của Chính phủ Mỹ đã ví “Operation Twist” như gói QE2,5 (gói Nới lỏng định lượng – Quantitative Easing). Vậy Quantitative Easing, Operation Twist là gì và tại sao “Operation Twist” được gọi là QE 2,5?

Quantitative Easing (QE)

Quantitative Easing thực chất chưa có trong từ điển kinh tế học nào. Đây là biệt danh được một số phương tiện thông tin đại chúng, các ngân hàng trung ương và giới phân tích đặt cho việc hỗ trợ kinh tế thông qua việc bơm tiền vào nền kinh tế trong trường hợp lãi suất đã bằng hoặc gần bằng 0. Đầu tiên, Ngân hàng trung ương sẽ “in” tiền bằng việc ghi nợ vào tài khoản của mình (Làm tăng Liabilities); sau đó sẽ lấy các khoản nợ vừa tạo để mua trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp từ các ngân hàng và định chế tài chính (Làm tăng Asset). Theo đó, QE sẽ làm tăng kích cỡ của Bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương.

Khái niệm QE lần đầu tiên được sử dụng tại Nhật Bản vào năm 2001 nhằm chống giảm phát và tăng cung tiền cho nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất nước này đã được cắt giảm về mức tối đa 0%. Sau đó, Chủ tích Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã khởi động chương trình này trong thời điểm khủng hoảng 2008 -2009 nhằm vực nền kinh tế ra khỏi suy thoái.

Biểu đồ: Các mốc thời gian của QE

Photobucket

“Operation Twist”

Trong khi đó, “Operation Twist” mà Fed vừa đưa ra là một loại công cụ hoán đổi thời hạn trái phiếu. Fed đã bán trái phiếu ngắn hạn để mua trái phiếu chính phủ dài hạn nhằm nỗ lực san bằng các đường cong lãi suất. Động thái sẽ góp phần hạ thấp lợi suất đối với trái phiếu dài hạn trong khi giữ nguyên lợi suất trái phiếu ngắn hạn. Theo đó, Fed không mở rộng cung tiền mà vẫn kích thích kinh tế. “Operation Twist” khác với QE vì “Operation Twist” không làm tăng kích cỡ của Bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên, cách thức của 2 công cụ này cùng là mua trái phiếu chính phủ nên giới phân tích đã gọi “Operation Twist” như là QE2,5!

Fed đã từng áp dụng chính sách này vào thập kỷ 1960. Tổng giá trị của chương trình “Operation Twist” vào thời điểm đó là 8,8 tỷ USD, tương đương 1,7% tổng quy mô của nền kinh tế Mỹ còn giá trị của chương trình lần này tương đương gần 2,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Kỳ tới:
Tại sao là QE2,5 mà không phải là QE3?
QE3 có thể còn chưa tác dụng, “Operation Twist” lại càng không!

Công cụ kích thích kinh tế bí mật của Fed

Trong những ngày qua, các nhà đầu tư trên toàn thế giới đã dồn sự chú ý vào khả năng Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể đưa ra gói kích thích kinh tế mới (QE3) để hỗ trợ nền kinh tế đang tăng trưởng chậm chạp và nhiều khả năng sẽ rơi vào suy thoái. Tuy nhiên, ít có người để ý, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ như lãi suất thấp, bơm tiền mua tài sản, Mỹ đã và đang sử dụng một vũ khí khá hiệu quả và ít tốn kém để trợ giúp nền kinh tế này trong suốt thời gian qua: Communication.

Có lẽ các nhà kinh tế học đều nắm rõ lý thuyết này: Giá trị hiện tại của một tài sản phụ thuộc nhiều vào kỳ vọng của nhà đầu tư đối với tài sản đấy trong tương lai. Vì vậy, để thay đổi được điều kiện hiện tại, điều kiện tiên quyết là phải thay đổi được kỳ vọng của nhà đầu tư đối với tương lai. Fed đã thay đổi kỳ vọng của các nhà đầu tư đối với tương lai thông qua các bài phát biểu của mình. Xin chỉ lấy ra một vài ví dụ để minh chứng:

Lãi suất của Mỹ đang được duy trì ở mức thấp kỷ lục 0 – 0,25% và không thể giảm xuống mức thấp hơn nữa. Tại buổi họp chính sách đầu tháng 8/2011, trong bối cảnh này không có nhiều chọn cho các gói kích thích kinh tế mới, Mỹ đã tiếp tục “giảm lãi suất” bằng cách thông báo về việc “sẽ duy trì mức lãi suất thấp kỷ lục ít nhất đến giữa năm 2013 để hỗ trợ sự hồi phục kinh tế Mỹ”. Đây là lần đầu tiên Fed chốt một thời hạn cụ thể cho tỷ lệ lãi suất thấp kỷ lục. Trước đó, Fed chỉ nói rằng, sẽ giữ mức lãi suất cơ bản ở mức thấp “trong một thời gian dài”. Với việc lãi suất đã gần bằng 0, Chính phủ Mỹ đã kích thích kinh tế bằng việc thuyết phục thị trường rằng lãi suất sẽ được duy trì tại mức thấp kỷ lục trong một thời gian dài hơn kỳ vọng. Theo một nghiên cứu của Tyler Durden, hiệu quả của việc tuyên bố này đối với kinh tế Mỹ tương đương với việc giảm lãi suất 30bp! Và ngay lập tức, thị trường đã phản ứng rất tích cực. Chỉ số Dow Jones tăng 3,98%, chỉ số S&P 500 tăng tới 4,7% trong khi lợi tức trái phiếu chính phủ 2 năm và 10 năm giảm tương ứng 1,16% và 2,273%!

Ngoài việc cam kết giữ lãi suất thấp, Fed còn đưa ra một số tuyên bố để tạo niềm tin cho nhà đầu tư và trấn an cho thị trường như “sẵn sàng đưa ra các gói hỗ trợ kinh tế mới nếu nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng yếu” hay “Mỹ đã sẵn sàng can thiệp thị trường để thúc đẩy nền kinh tế” hay “Mỹ đủ công cụ để hỗ trợ nền kinh tế”… Mà trên thực tế ai cũng biết, đã gần 3 tháng trôi qua kể từ ngày gói kích thích kinh tế thứ 2 kết thúc, trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng khá chậm chạp và còn có khả năng rơi vào suy thoái, Mỹ vẫn chưa đưa ra chính thức bất kỳ gói kích thích nào! Nếu quả thực, kinh tế Mỹ còn nhiều công cụ để hỗ trợ như vậy thì cõ lẽ thị trường đã không phải chờ đợi quá lâu như vậy. Các tuyên bố của Fed có thể coi là một công cụ hỗ trợ hiệu quả nhằm vực dậy thị trường trong bối cảnh các công cụ khác đã dần cạn kiệt. Thị trường đã và đang mong chờ một gói kích thích mới được bơm ra, nhưng trên thực tế Mỹ đã đang kích thích kinh tế qua vũ khí ngầm của mình.

Có thể, hiệu quả của công cụ kích thích này không thật sự rõ rệt với nhiều người. Các chỉ số niềm tin vẫn sụt giảm mạnh trong giai đoạn vừa qua. Nhưng nếu xét lại trong bối cảnh kinh tế ảm đạm như giai đoạn vừa rồi, nếu không có công cụ kích thích này, có lẽ niềm tin của giới đầu tư còn giảm mạnh hơn nữa. Trong lúc chờ đợi một gói kích thích mới được tung ra, có lẽ thị trường vẫn cần những công cụ hỗ trợ như vậy để tạo niềm tin, như là một liều thuốc giảm đau để chống lại cuộc suy thoái đang đến rất gần.

Nhận định tác động nếu QE3 được đưa ra

Gần đây các nhà đầu tư đang xôn xao lo ngại về khả năng một gói nới lỏng định lượng QE3 sẽ xuất hiện sau sự kết thúc thất bại trong việc đưa nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi bờ vực suy thoái của gói QE2 vào tháng 6/2011. Reuter đã có cuộc khảo sát các nhà quản lý quỹ của Ngân hàng Merill Lynch và gần một nửa trong số họ khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục duy trì giảm lãi suất đã cận kề zero thông qua chương trình mua trái phiếu chính phủ của mình. Hơn nữa, từ chính bản thân nước Mỹ, sau tất cả những lỗ lực, liệu chính phủ sẽ để những lợi ích từ nguồn vốn giá rẻ mà các ngân hàng, doanh nghiệp đã từng được hưởng, thị trường chứng khoán khoe sắc nhờ được tiếp sức dòng tiền dồi dào trước đây sẽ tan thành bóng bóng? Sẽ không chỉ có QE3 xuất hiện mà còn tiếp QE4, QE5… vì nước Mỹ đã chôn chân trong vòng quay tăng trưởng mà chưa nhận ra nền kinh tế của mình đã quá già yếu. Khi những lợi ích nhận được nếu QE3 xảy ra còn chưa rõ ràng thì những lo lắng đã bao trùm khắp các nền kinh tế…
Trước hết, nhìn lại tác động trong thời gian gói QE2 diễn ra (11/2010 – 6/2011), trong khi chương trình mua trái phiếu đã khiến các nhà đầu tư tăng mua tài sản lợi tức cao hơn như cổ phiếu, thì mục tiêu thúc đẩy người dân chi tiêu nhiều hơn, giúp nền kinh tế phát triển và giảm tỷ lệ thất nghiệp đã không có hiệu quả. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 2 của Mỹ đã rơi xuống mức 8,9%, mức thấp nhất trong hai năm trở lại đây tuy nhiên lại tăng dần lên 9,2% vào tháng 6, tất nhiên, với lượng cung tiền 600 tỷ USD, lạm phát tăng cao là điều không tránh khỏi. Ngoài ra, QE2 cũng bị buộc tội đã tạo sức ép lên lạm phát toàn cầu khi luồng vốn nóng QE2 chảy vào các quốc gia đang phát triển nhanh gây áp lực tỷ giá và giá cả trong nước do hầu hết các giao dịch thanh toán thương mại quốc tế đều neo vào giá USD. Giá các nhóm hàng hóa theo thống kê của IMF tính đến tháng 6-2011 đều tăng mạnh so với tháng 12-2010 và so với cùng kỳ năm trước: giá các hàng hóa cơ bản tăng 11,71% và 36,1%; giá lương thực tăng 16,18% và 32,91%; giá năng lượng tăng 37,93% và 39,72%. Hơn nữa, sự giảm giá sâu của đồng USD so với các dòng tiền khác (theo số liệu do Reuters thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2011, đồng đô la Mỹ giảm giá nhiều nhất so với đồng euro (-7,77%), đô la Úc (-4,8%), bảng Anh (-2,79%) và các đồng tiền khu vực châu Á như đô la Singapore (-4,27%), đồng won Hàn Quốc (-4,84%)…so với cuối năm 2010) cũng châm ngòi cho giá vàng leo thang, ngày 30-6-2011, giá vàng giao ngay đạt mức 1,499.6 USD/ounce, tăng 5,65% so với cuối năm 2010 và tăng 20,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Và sau khi gói QE2 kết thúc:
Lạm phát song hành cùng thất nghiệp: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 tăng 0,5% so với tháng 6, gấp 2,5 lần so với dự báo 0,2% của các nhà kinh tế và tăng 3,6% so với cùng kì năm 2010. Bộ Lao Động cũng cho biết, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp tiếp tục tăng 9.000 người, lên 408.000 người trong tuần kết thúc vào ngày 13/8, đây cũng là mức tăng cao nhất trong 1 tháng, hơn nữa, do tác động của lạm phát nên tiền lương theo giờ thực tế giảm 0,1% trong tháng 7 và giảm 1,3% so với tháng 7/2010. Kết quả, chi tiêu giảm 0,2% trong tháng 6, trong khi thu nhập tăng 0,1% – ngược lại hẳn với mục tiêu kích cầu cho nền kinh tế phục hồi. Chi phí đầu vào và hàng hóa đầu ra của các doanh nghiệp đều gặp khó khăn, để bảo vệ lợi nhuận, việc cắt giảm lao động hoặc ngừng tuyển thêm sẽ là hệ quả tất yếu của tình trạng thất nghiệp không ngừng tăng cao hiện nay tại Mỹ.
Nếu Mỹ tiến hành gói QE3 dự kiến 300 tỷ USD…
Nước Mỹ sẽ tiếp tục tự dìm mình trong lạm phát khi lượng cung tiền từ QE3 sẽ đẩy lạm phát ra ngoài vòng kiểm soát mà trước đó, Cục dự trữ Liên bang Mỹ FED đã đưa ra mục tiêu dài hạn là 1,7 – 2%. Tình trạng thất nghiệp sẽ còn diễn biến tồi tệ hơn khi QE3 không những không tạo thêm việc làm mà còn khiến các doanh nghiệp gặp khốn đốn để đối phó với những diễn biến tiêu cực hơn thời gian trước. Với hàng loạt dự báo trước như sức chi tiêu tiêu dùng giảm, hoạt động sản xuất khó khăn,… liệu QE3 sẽ thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế? Để nền kinh tế Mỹ có thể tự mình tăng trưởng hay cứ phải cần vào các hỗ trợ để rồi chỉ riêng nước Mỹ tự hào nhận ra mình đang thoát khỏi suy thoái kinh tế.
Thế giới bị vạ lây:
Dù mới lờ mờ xuất hiện, nước Mỹ đã đạt được ngay hiệu ứng ngắn hạn của mình là củng cố niềm tin của nhà đầu tư đưa thị trường chứng khoán phiên giao dịch ngày 23/08/2011 khởi sắc với mức tăng trên 3% – mạnh nhất trong vòng 4 tháng qua, giá vàng quay đầu giảm mạnh trong phiên giao dịch đã có lúc xuống 1.822 USD/ounce. Thế nhưng, thế giới lại nóng như ngồi trên đống lửa chờ đợi một kết cục dài hạn hơn tương tự hoặc thậm chí thảm khốc hơn những gì gói QE2 mang lại. Các nền kinh tế nhỏ lại rơi vào vòng xoay không thể kiểm soát do xáo trộn tỷ giá, kinh tế thương mại bất ổn, dòng tiền đầu tư mất phương hướng…. Một ví dụ thôi, khi lạm phát tăng, chỉ tính riêng sức mua của người Mỹ đối với tivi của Hàn Quốc, ôtô của Đức, đồ chơi của Trung Quốc, rượu wishky của Scotland và các mặt hàng khác đều giảm xuống, vai trò “người tiêu dùng cuối cùng” của Mỹ sẽ dần chấm dứt, kéo theo đó là sự tăng trưởng chậm lại của các nước, đó là không kể đến việc kết hợp tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu đang diễn ra hiện nay.
Trung Quốc – quốc gia nước ngoài sở hữu Trái phiếu chính phủ Mỹ nhiều nhất sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do thiệt hại kép mà đồng USD suy giảm gây ra. Theo thống kê của chính phủ Mỹ, tính đến giữa tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đã mua thêm 7,300 tỷ USD công nợ Mỹ, nâng tổng mức nắm giữ trái phiếu Mỹ lên tới 11,598 tỷ USD. Nguy cơ khối tài sản khổng lồ này sẽ bị bốc hơi nếu đồng USD tiếp tục hạ giá và trái khoáy thay, để tỷ lệ đồng USD ổn định, chính phủ Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục mua nợ công của Mỹ. Hơn nữa, vẫn chưa có tài sản nào có thể thay thế nợ công của Mỹ, trái phiếu chính phủ của Nhật Bản và Hàn Quốc đều không thể thay thế, hiện nay, chỉ có mỗi trái phiếu chính phủ Mỹ là hiệu quả nhất và có tính thanh khoản cao nhất. Ngoài ra, việc giao thương trên thế giới vẫn chủ yếu được định giá và thanh toán dựa vào đồng USD, đối với một nước xuất khẩu chiếm đến ¼ giá trị hàng xuất khẩu toàn cầu như Trung Quốc thì thiệt hại do biến động tỷ giá là không hề nhỏ.
Kết luận: Mặc dù chưa chính thức được đưa ra và tác động của gói QE3 vẫn còn là một dấu hỏi lớn đối với nền kinh tế nhưng theo tôi thì các quốc gia, nhà đầu tư đã nên cân nhắc chiến lược đầu tư hợp lý cho mình, có nên tiếp tục đặt niềm tin và phụ thuộc vào sức mạnh của nền kinh tế lớn thứ nhất thế giới này hay chủ động đưa ra giải pháp đón đầu tác động mà gói QE3 có thể gây ra? Đã đến lúc họ phải có những cải tổ cho riêng mình

Các dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng kinh tế thứ 2 đã bắt đầu xuất hiện

Ngày hôm qua, thị trường chứng khoán toàn cầu chứng kiến một ngày sụt giảm mạnh của hầu hết các chỉ số chính, giá dầu thô trượt dài trong khi giá vàng tiếp tục phá kỷ lục mọi thời đại. Có rất nhiều nguyên nhân đã được các báo nói tới bao gồm các thông tin không lạc quan về kinh tế Mỹ, về nguồn vốn của các Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Tuy nhiên, điều mà khiến giới đầu tư, phân tích lo ngại hơn cả đó là các dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng mới đang dần bắt đầu. Và nếu xảy ra, hậu quả mà nó để lại sẽ còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng trước đó rất nhiều.

Các dấu hiệu

Cuộc khủng hoảng năm 2008 đã bắt đầu lan từ Mỹ và tới các quốc gia khác. Và bây giờ, các mầm mống của một cuộc suy thoái mới đã bắt đầu xuất tại nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã tăng mạnh trở lại ở mức 9,2% vào cuối tháng 6 và còn có thể tiếp tục tăng cao do không còn được hỗ trợ bởi các gói kích thích kinh tế. Sự sụt giảm của thị trường việc làm sẽ kéo theo chi tiêu của người tiêu dùng nước này tiếp tục suy giảm. Thị trường nhà đất nhiều khả năng tiếp tục giảm tốc trong các tháng tới khi các báo cáo mới nhất cho thấy doanh số bán nhà đã qua sử dụng, doanh số bán nhà mới và giá nhà đều đang giảm mạnh. Sự đóng băng của thị trường bất động sản sẽ kéo theo nhiều khu vực của nền kinh tế bị ảnh hưởng như tín dụng, đầu tư… Bên cạnh đó, lĩnh vực sản xuất, một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đã sụt giảm đáng kể khi chỉ số phản ánh hoạt động của các nhà máy tại Philadelphia đã thu hẹp mạnh từ mức 3,2 điểm xuống còn -30,7 điểm. Ngoài ra, báo cáo mới công bố sáng nay cho thấy chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 7 đã tăng gấp đôi dự đoán và cao nhất trong vòng 4 tháng trở lại đây. Sự tăng cao của giá tiêu dùng sẽ là một nhân tố khác khiến người dân Mỹ sẽ chưa thể mạnh dạn chi tiêu.

Bên cạnh các nhân tố nội tại, Mỹ còn bị ảnh hưởng bởi nguy cơ khủng hoảng nợ từ Hy Lạp, sự chậm lại của các nền kinh tế khu vực Đồng tiền chung (GDP quý 2 của khu vực chỉ tăng 0,2% so với quý trước đó, ghi nhận mức thấp nhất trong vòng 2 năm, trong đó, GDP của nền kinh tế đầu tàu là Đức cũng chỉ tăng 0,1%) và sự yếu đi của đồng USD. Sự yếu kém từ nội tại nền kinh tế kết hợp với các yếu tố bất lợi từ ngoài vào sẽ là một lực đẩy lớn đẩy nền kinh tế này vào trong suy thoái.

Nếu như trong năm 2009, cũng trong bối cảnh các hoạt động kinh tế giảm sút, Chính phủ Mỹ đã vào can thiệp, tạo tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua lãi suất thấp, cứu trợ ngân hàng và bơm tiền mặt vào nền kinh tế. Với 2 gói cứu trợ QE1 và QE2, Chính phủ Mỹ đã giúp nền kinh tế cải thiện và tăng trưởng trở lại, tránh được một cuộc suy thoái kép. Nhưng điều kiện hiện tại thì không còn dễ dàng như vậy nữa. Mỹ vừa đối mặt với việc phải cam kết thắt chặt chi tiêu để nâng được mức trần nợ công thêm 2,4 nghìn tỷ USD. Thêm vào đó, các hãng tín nhiệm đã cảnh báo sẽ hạ bậc tín nhiệm của nước này trong 6-12 tháng tới nếu Mỹ không thực hiện theo đúng kế hoạch cắt giảm đã đề ra. Bị bó hẹp bởi kế hoạch cắt giảm ngân sách và trong bối cảnh áp lực lạm phát đã tăng trở lại, Chính phủ nước này sẽ phải mất khá nhiều thời gian để cân nhắc biện pháp bơm thêm tiền vào nền kinh tế. Mặt khác, cho dù trường hợp Mỹ tiếp tục bơm ra một gói hỗ trợ mới, giới phân tích vẫn tin rằng đó sẽ chỉ là một giải pháp ngắn hạn mà không thể đáp ứng được những vấn đề về dài hạn của nền kinh tế này.

Bên cạnh các chỉ báo về kinh tế, các thống kê lịch sử đã cho thấy Mỹ đang bước dần tới nguy cơ suy thoái. Theo thống kê từ năm 1947, cứ khi nào tốc độ tăng trưởng GDP của nước này (so với cùng kỳ năm trước đó) mà giảm xuống mức 2% thì thường sẽ dẫn đến một cuộc suy thoái. Hiện tại, GDP quý 2/2011 của Mỹ tăng 1,6% so với cùng kỳ năm ngoái mà trong bối cảnh chưa có yếu tố thuận lợi nào hỗ trợ, GDP của Mỹ nhiều khả năng sẽ tiếp tục đà sụt giảm.

hk

(Source: streettalklive.com)

Thêm vào đó, một chỉ báo khác là chỉ số EOCI (Chỉ số sản lượng kinh tế). Chỉ số này tính trung bình cộng các chỉ số đo hoạt động sản xuất của Chicago, NewYork, Philadelphia, ISM… Theo thống kê lịch sử, chỉ số này giảm xuống mức 35 điểm thì nền kinh tế sẽ bước vào chu kỳ suy thoái. Tháng trước, chỉ số này đã đứng ở mức 35,99 điểm và chưa có con số thông báo chính thức về chỉ số này trong tháng 8. Tuy nhiên, việc chỉ số sản xuất tháng 8 của Philadelphia vừa công bố sáng nay giảm mạnh từ mức 3,2 điểm xuống còn -30,7 điểm thì khả năng chỉ số này sẽ giảm sâu dưới mức 35 điểm là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

kh

(Source: streettalklive.com)

Kết lại

Có thể nhiều người vẫn sẽ nói còn quá sớm để nói về một cuộc suy thoái mới, một cuộc khủng hoảng mới, thậm chí, vấn đề này là vấn đề của Mỹ.  Nhưng một khi nó xảy ra, hậu quả nó để lại sẽ có thể còn nặng nề hơn những gì cuộc khủng hoảng năm 2008 mang lại. Vì hiện tại, những phao cứu sinh của kinh tế toàn cầu đã gần cạn kiệt, theo đó, kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào một thời kỳ suy thoái kéo dài và rất lâu để có thể hồi phục trở lại.

Chốt lại, tiếp tục mua vàng thôi!