Lo ngại về sự lây lan “Hội chứng Hy Lạp” và khó khăn trong việc nâng quy mô EFSF

Ngày 27/10, Hội nghị thượng đỉnh EU đã thống nhất một loạt các giải pháp nhằm đối phó với tình trạng căng thẳng trên thị trường tài chính và phục hồi niềm tin của thị trường:

  • Thứ nhất, các nhà đầu tư tư nhân chấp nhận xóa 50% các khoản nợ cho Hy Lạp. Ngoài ra, EU cũng thống nhất chương trình hỗ trợ mới của EU-IMF tài trợ khoảng 100 tỷ EUR cho Hy Lạp sẽ được triển khai vào cuối 2011.
  • Thứ hai, Quỹ ổn định tài chính châu Âu (EFSF) sẽ được nâng từ 440 tỷ EUR lên 1.000 tỷ EUR, tương đương tăng 4 lần so với khoản tiền còn lại là 290 tỷ EUR (do quỹ đã trích một phần cứu trợ Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha trước đó). Giới chức Châu Âu đưa ra 2 phương án cho việc nâng quỹ: Một là dựa vào đóng góp của các nước trong Eurozone. Hai là thu hút nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đọc tiếp »

Cập nhật tình hình cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Dexia chính thức trở thành nạn nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu

Đầu tháng 10/2011, ngân hàng Dexia – ngân hàng liên doanh của 3 nước Pháp, Bỉ và Luxembourg thuộc top 50 ngân hàng lớn nhất thế giới đã chính thức cần đến sự giúp đỡ để tránh rơi vào tình trạng phá sản. Dư luận báo chí các nước Châu Âu cho rằng sự sụp đổ của Dexia là mốc quan trọng đánh dấu ngành ngân hàng Châu Âu có nguy cơ bị sụp đổ giống như “Kịch bản Lehman Brothers” ở Mỹ năm 2008.

Đọc tiếp »

Toàn cảnh về khủng hoảng nợ công Hy Lạp

Nợ công Hy Lạp – vượt quá tầm kiểm soát

Sự yếu kém trong quản lý công khiến nợ công quá cao là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng nợ  Hy Lạp

Cho đến nay, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã kéo dài gần 3 năm,  các nỗ lực cứu trợ cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các Chính phủ vẫn không ngừng được  đưa ra nhưng tình hình thậm chí ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này,  Hy Lạp là cái tên được người ta nhắc đến nhiều nhất.

Đọc tiếp »

Nhận định tác động nếu QE3 được đưa ra

Gần đây các nhà đầu tư đang xôn xao lo ngại về khả năng một gói nới lỏng định lượng QE3 sẽ xuất hiện sau sự kết thúc thất bại trong việc đưa nền kinh tế Mỹ vẫn chưa thoát khỏi bờ vực suy thoái của gói QE2 vào tháng 6/2011. Reuter đã có cuộc khảo sát các nhà quản lý quỹ của Ngân hàng Merill Lynch và gần một nửa trong số họ khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục duy trì giảm lãi suất đã cận kề zero thông qua chương trình mua trái phiếu chính phủ của mình. Hơn nữa, từ chính bản thân nước Mỹ, sau tất cả những lỗ lực, liệu chính phủ sẽ để những lợi ích từ nguồn vốn giá rẻ mà các ngân hàng, doanh nghiệp đã từng được hưởng, thị trường chứng khoán khoe sắc nhờ được tiếp sức dòng tiền dồi dào trước đây sẽ tan thành bóng bóng? Sẽ không chỉ có QE3 xuất hiện mà còn tiếp QE4, QE5… vì nước Mỹ đã chôn chân trong vòng quay tăng trưởng mà chưa nhận ra nền kinh tế của mình đã quá già yếu. Khi những lợi ích nhận được nếu QE3 xảy ra còn chưa rõ ràng thì những lo lắng đã bao trùm khắp các nền kinh tế…
Trước hết, nhìn lại tác động trong thời gian gói QE2 diễn ra (11/2010 – 6/2011), trong khi chương trình mua trái phiếu đã khiến các nhà đầu tư tăng mua tài sản lợi tức cao hơn như cổ phiếu, thì mục tiêu thúc đẩy người dân chi tiêu nhiều hơn, giúp nền kinh tế phát triển và giảm tỷ lệ thất nghiệp đã không có hiệu quả. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 2 của Mỹ đã rơi xuống mức 8,9%, mức thấp nhất trong hai năm trở lại đây tuy nhiên lại tăng dần lên 9,2% vào tháng 6, tất nhiên, với lượng cung tiền 600 tỷ USD, lạm phát tăng cao là điều không tránh khỏi. Ngoài ra, QE2 cũng bị buộc tội đã tạo sức ép lên lạm phát toàn cầu khi luồng vốn nóng QE2 chảy vào các quốc gia đang phát triển nhanh gây áp lực tỷ giá và giá cả trong nước do hầu hết các giao dịch thanh toán thương mại quốc tế đều neo vào giá USD. Giá các nhóm hàng hóa theo thống kê của IMF tính đến tháng 6-2011 đều tăng mạnh so với tháng 12-2010 và so với cùng kỳ năm trước: giá các hàng hóa cơ bản tăng 11,71% và 36,1%; giá lương thực tăng 16,18% và 32,91%; giá năng lượng tăng 37,93% và 39,72%. Hơn nữa, sự giảm giá sâu của đồng USD so với các dòng tiền khác (theo số liệu do Reuters thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2011, đồng đô la Mỹ giảm giá nhiều nhất so với đồng euro (-7,77%), đô la Úc (-4,8%), bảng Anh (-2,79%) và các đồng tiền khu vực châu Á như đô la Singapore (-4,27%), đồng won Hàn Quốc (-4,84%)…so với cuối năm 2010) cũng châm ngòi cho giá vàng leo thang, ngày 30-6-2011, giá vàng giao ngay đạt mức 1,499.6 USD/ounce, tăng 5,65% so với cuối năm 2010 và tăng 20,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Và sau khi gói QE2 kết thúc:
Lạm phát song hành cùng thất nghiệp: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 tăng 0,5% so với tháng 6, gấp 2,5 lần so với dự báo 0,2% của các nhà kinh tế và tăng 3,6% so với cùng kì năm 2010. Bộ Lao Động cũng cho biết, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp tiếp tục tăng 9.000 người, lên 408.000 người trong tuần kết thúc vào ngày 13/8, đây cũng là mức tăng cao nhất trong 1 tháng, hơn nữa, do tác động của lạm phát nên tiền lương theo giờ thực tế giảm 0,1% trong tháng 7 và giảm 1,3% so với tháng 7/2010. Kết quả, chi tiêu giảm 0,2% trong tháng 6, trong khi thu nhập tăng 0,1% – ngược lại hẳn với mục tiêu kích cầu cho nền kinh tế phục hồi. Chi phí đầu vào và hàng hóa đầu ra của các doanh nghiệp đều gặp khó khăn, để bảo vệ lợi nhuận, việc cắt giảm lao động hoặc ngừng tuyển thêm sẽ là hệ quả tất yếu của tình trạng thất nghiệp không ngừng tăng cao hiện nay tại Mỹ.
Nếu Mỹ tiến hành gói QE3 dự kiến 300 tỷ USD…
Nước Mỹ sẽ tiếp tục tự dìm mình trong lạm phát khi lượng cung tiền từ QE3 sẽ đẩy lạm phát ra ngoài vòng kiểm soát mà trước đó, Cục dự trữ Liên bang Mỹ FED đã đưa ra mục tiêu dài hạn là 1,7 – 2%. Tình trạng thất nghiệp sẽ còn diễn biến tồi tệ hơn khi QE3 không những không tạo thêm việc làm mà còn khiến các doanh nghiệp gặp khốn đốn để đối phó với những diễn biến tiêu cực hơn thời gian trước. Với hàng loạt dự báo trước như sức chi tiêu tiêu dùng giảm, hoạt động sản xuất khó khăn,… liệu QE3 sẽ thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế? Để nền kinh tế Mỹ có thể tự mình tăng trưởng hay cứ phải cần vào các hỗ trợ để rồi chỉ riêng nước Mỹ tự hào nhận ra mình đang thoát khỏi suy thoái kinh tế.
Thế giới bị vạ lây:
Dù mới lờ mờ xuất hiện, nước Mỹ đã đạt được ngay hiệu ứng ngắn hạn của mình là củng cố niềm tin của nhà đầu tư đưa thị trường chứng khoán phiên giao dịch ngày 23/08/2011 khởi sắc với mức tăng trên 3% – mạnh nhất trong vòng 4 tháng qua, giá vàng quay đầu giảm mạnh trong phiên giao dịch đã có lúc xuống 1.822 USD/ounce. Thế nhưng, thế giới lại nóng như ngồi trên đống lửa chờ đợi một kết cục dài hạn hơn tương tự hoặc thậm chí thảm khốc hơn những gì gói QE2 mang lại. Các nền kinh tế nhỏ lại rơi vào vòng xoay không thể kiểm soát do xáo trộn tỷ giá, kinh tế thương mại bất ổn, dòng tiền đầu tư mất phương hướng…. Một ví dụ thôi, khi lạm phát tăng, chỉ tính riêng sức mua của người Mỹ đối với tivi của Hàn Quốc, ôtô của Đức, đồ chơi của Trung Quốc, rượu wishky của Scotland và các mặt hàng khác đều giảm xuống, vai trò “người tiêu dùng cuối cùng” của Mỹ sẽ dần chấm dứt, kéo theo đó là sự tăng trưởng chậm lại của các nước, đó là không kể đến việc kết hợp tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu đang diễn ra hiện nay.
Trung Quốc – quốc gia nước ngoài sở hữu Trái phiếu chính phủ Mỹ nhiều nhất sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do thiệt hại kép mà đồng USD suy giảm gây ra. Theo thống kê của chính phủ Mỹ, tính đến giữa tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đã mua thêm 7,300 tỷ USD công nợ Mỹ, nâng tổng mức nắm giữ trái phiếu Mỹ lên tới 11,598 tỷ USD. Nguy cơ khối tài sản khổng lồ này sẽ bị bốc hơi nếu đồng USD tiếp tục hạ giá và trái khoáy thay, để tỷ lệ đồng USD ổn định, chính phủ Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục mua nợ công của Mỹ. Hơn nữa, vẫn chưa có tài sản nào có thể thay thế nợ công của Mỹ, trái phiếu chính phủ của Nhật Bản và Hàn Quốc đều không thể thay thế, hiện nay, chỉ có mỗi trái phiếu chính phủ Mỹ là hiệu quả nhất và có tính thanh khoản cao nhất. Ngoài ra, việc giao thương trên thế giới vẫn chủ yếu được định giá và thanh toán dựa vào đồng USD, đối với một nước xuất khẩu chiếm đến ¼ giá trị hàng xuất khẩu toàn cầu như Trung Quốc thì thiệt hại do biến động tỷ giá là không hề nhỏ.
Kết luận: Mặc dù chưa chính thức được đưa ra và tác động của gói QE3 vẫn còn là một dấu hỏi lớn đối với nền kinh tế nhưng theo tôi thì các quốc gia, nhà đầu tư đã nên cân nhắc chiến lược đầu tư hợp lý cho mình, có nên tiếp tục đặt niềm tin và phụ thuộc vào sức mạnh của nền kinh tế lớn thứ nhất thế giới này hay chủ động đưa ra giải pháp đón đầu tác động mà gói QE3 có thể gây ra? Đã đến lúc họ phải có những cải tổ cho riêng mình